Phát triển hệ thống đào tạo: bài viết của Giám đốc công ty du học Cầu Xanh BB
(Bài nghiên cứu đăng tạp chí trang giáo dục đào tạo số tháng 10/2009) của Th.S. La Phương Thuỷ. Giảng viên Đại học kinh tế, đại học quốc gia Hà Nội. Giám đốc công ty Cầu Xanh.
Tóm tắt : Trên thế giới, từ những năm 60 – 70, mối quan hệ
giữa đào tạo và việc làm đã được quan tâm nghiên cứu và kể từ đó đã có nhiều lí
thuyết, nhiều mô hình đưa ra nhằm tối đa hoá hiệu quả của hệ thống đào tạo. Bài
viết này trước hết sẽ khái quát lịch sử phát triển của mối quan hệ giữa đào tạo
và việc làm, giới thiệu một số mô hình chuyển đổi tiêu biểu từ hệ thống đào tạo
sang việc làm trên thế giới hiện nay, và cuối cùng, nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc phân tích quá trình gia nhập thị trường việc làm như một yếu tố để
đánh giá hệ thống đào tạo đồng thời là một yếu tố định hướng đối với cơ sở đào
tạo.
(Scince 60s – 70s in the world the relationship
beetwen education and employement had been interrested and there was many
theories and models proposed in order to maximise the eduction system benefit.
In this article, we are trying to sumerise the development history of this
relationship, to modelise the world’s typical processus of transition from
educational system to employement system and finally to emphesis the importance
of analysing this transition as an element to evaluate the educational system and
in the same time an oriental element for educational system)
Từ khoá : hệ thống đào tạo, hệ thống việc làm, công nghệ đạo tạo,
quá trình chuyển đổ từ hệ thống đào tạo sang hệ thống việc làm, mô hình chuyển
đổi từ hệ thống đào tạo sang hệ thống việc làm, mô hình đào tạo, mối quan hệ
giữa hệ thống đào tạo và hệ thống việc làm.
Tài liệu tham khảo :
1. Andre Guitet, Développer
les compétences par une ingenierie de formation, EFS Editeur, 2002.
2. Nhiều tác giả, dưới sự chỉ đạo của Jean Aubegny, Formation et dévelopement, vers une ingenierie
de la formation, L’’Harmattan, 2002.
3. John Dumin, Toward
educational engineering, Hardcover, 1982.
4. Robert G Smith, The
engineering of educational and training system, Hardcover, 1971.

(Ảnh: Thạc sĩ La Phương Thủy, tại thư viện trường IHTTI, Thụy Sĩ)
1. Vài nét lịch sử :
Ở Châu Âu từ những năm 60, mối quan hệ giữa hệ đào tạo và
việc làm đã bắt đầu trở thành vấn đề được quan tâm. Kể từ khi đó, các tổ chức
đào tạo đã bắt đầu nỗ lực xây dựng một hệ thống đào tạo phù hợp với hệ thống
việc làm trên cơ sở những giải pháp mang tính chất kĩ thuật chứ chưa có hệ
thống. Lúc đó kinh tế lao động ra đời. Các trung tâm nghiên cứu mối quan hệ
giữa đào tạo và việc làm cũng được thành lập. Đến những năm 80, khái niệm về
Công nghệ đào tạo được đưa ra – thuật ngữ của Guy Le Boterf, học giả người Pháp.
Trước hết, công nghệ (engineering) là một thuật ngữ được ra đời vào đầu thế kỉ
20, trước chiến tranh thế giới lần thứ hai tại Mỹ, Anh và Đức. The đó, công
nghệ chỉ ra ‘’hoạt động thiết kế, xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp lớn
trong các lĩnh vực dầu lửa, hoá dầu, hoá học, cơ khí và các nhà máy chế tạo vũ
khí[1]. » Trong lĩnh
vực đào tạo hay phát triển nguồn nhân lực, công nghệ mới đầu bao hàm việc
‘’thiết kế các hệ thống đào tạo, đặc biệt là các hệ thống đào tạo ngành nghề’’[2]. Tiếp theo đó, công nghệ
đào tạo còn mở rộng ý nghĩa sang cả việc thiết kế và xây dựng các kế hoạch đào
tạo, xác định các chương trình kĩ thuật và kiến trúc các thiết bị phục vụ đào
tạo. Mô hình đào tạo nhấn mạnh hai yếu tố thời gian và địa điểm : các
chính sách đào tạo phải được đưa ra phù hợp với địa phương và nhu cầu xã hội
tại một thời điểm xác định. Đến những năm 90, toàn cầu hoá và sự phát triển của
các ngành công nghệ mới đã dẫn đến việc hình thành nên các mô hình chuyển đổi
tiêu biểu từ hệ thống đào tạo sang hệ thống việc làm.
2 . Mô hình chuyển
đổi từ hệ thống đào tạo sang hệ thống việc làm
Mô hình Nhật Bản : mô hình chuyển đổi trực tiếp
Mô hình của Nhật Bản nhấn mạnh đào tạo trong doanh
nghiệp : trường học được đặt ngay trong lòng doanh nghiệp, thanh niên được
đào tạo trực tiếp trong doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp và trường học có mối
quan hệ trực tiếp, doanh nghiệp đảm nhận việc đầu tư cho đào tạo. Đối với các
doanh nghiệp nhỏ không có phương tiện đào tạo nhân sự thì họ trực tiếp đến các
trường chuyên nghiệp để tuyển dụng nhân công.
Mô hình Đức : mô hình chuyển đổi được điều tiết
Mô hình của Đức cũng giống như mô hình của Đanh Mạch, Áo
hay Thuỵ Sĩ, nhấn mạnh việc đào tạo tiếp tục sau khi ra trường, do vậy, trường
học và doanh nghiệp có mối quan hệ đối tác rất chặt chẽ. Khi tuyển nhận nhân
viên, doanh nghiệo thường kí hợp đồng ba năm theo chế độ học việc. Chương trình
đào tạo được các tổ chức công đoàn và chủ doanh nghiệp cùng nhau đàm phán và
thoả thuận xây dựng. Công đoàn chủ chương xây dựng chương trình đào tạo mang
tính đại cương, cơ bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cho người lao động có
khả năng chuyển đổi công việc. Trái lại, các chủ doanh nghiệp chủ chương đào
tạo theo một chương trình cụ thể, ngay tại môi trường làm việc để đáp ứng đúng
chính xác nhu cầu của người sử dụng lao động.
Mô hình Mỹ : mô hình chuyển đổi không được điều tiết
Mô hình chuyển đổi không được điều tiết, quá trình chuyển
đổi sang thị trường lao động thường rất dài. Người Mỹ xây dựng con đường học
tập ngay từ đầu đã mang tính chất chuyên môn nghề nghiệp, nhằm giúp cho người
có điều kiện bất lợi nhất trong xã hội cũng có thể học được một nghề, giúp họ
đi xin việc được thuận lợi nhất. Tuy nhiên, việc làm càng ngày càng bất ổn, do
đó, con đường chuyển đổi từ nhà trường sang doanh nghiệp diễn ra dưới dạng
chuyển từ việc làm ngắn hạn này sang việc làm ngắn hạn khác, giữa các khoảng
chuyển đổi đó, người lao động phải tìm cách thích ứng với công việc mới.
Mô hình Pháp : mô hình chuyển đổi lệch hướng
Pháp cũng như Ý, hay các nước La tinh, đều là những nước
muốn quá trình đào tạo phải được diễn tra trong môi trường học đường. Phần lớn
dân số được đào tạo những kiến thức đại cương cơ bản mang tính hàn lâm, nhà
trường chỉ chú trọng đến khía cạnh sư phạm chứ không chú trọng đến các kĩ năng
nghề nghiệp và đây được coi là phần trách nhiệm của doanh nghiệp đối với nhân
công của họ. Hệ thống đào tạo được xây dựng trên nguyên tắc đáp ứng yêu cầu
việc làm của xã hội theo kiểu càng học cao thì càng có được công việc quan
trọng. Tuy nhiên, thực tế thì quá trình chuyển đổi đã diễn ra chệch nguyên tắc
này theo hai hướng : hoặc là người đi học buộc phải đi thực tập kéo dài để
học việc, hoặc người đi làm phải quay trở lại vừa học vừa làm.
3. Tổ chức hệ thống đào tạo phục vụ thị trường ở Việt Nam
Truyền thống đào tạo của Việt
Nam xuất phát từ đào tạo elite – đào tạo
tinh hoa. Các triều đại từ Triệu, Đinh, Lý, Trần đều coi trọng và tuyển cử
những tinh hoa của dân tộc qua các khoa thi chung cho cả nước. Phụ nữ và đại đa
số dân chúng không được tiếp cận với đào tạo. Truyền thống này được lưu giữ lâu
dài cho đến thời kì hiện đại, vẫn tiếp tục với các kì thi tuyển sinh toàn quốc,
sàng lọc sinh viên khắt khe chặt chẽ với những chỉ tiêu hạn chế. Tiêu chí sàng
lọc được thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Cho đến những năm 1990 đã có sự
chuyển đổi, hàng loạt các trường mới tại các địa phương đã được mở ra nhằm phục
vụ cho nhu cầu nhân lực cho chính địa phương đó. Đào tạo bắt đầu gắn liền với
nhu cầu nhân lực của xã hội chứ không phải chỉ để hình thành các nhân tài. Cho
đến ngày nay, đào tạo đáp ứng nhu cầu việc làm của xã hội đang là vấn đề nóng
bỏng trên toàn quốc. Trường Đại học kinh tế - ĐHQG Hà Nội, một trong những đơn
vị tiên phong trong đổi mới mô hình đào tào, coi đây là vấn đề ưu tiên thực
hiện đối với toàn thể ban lãnh đạo và giáo viên nhà trường. Sáng thứ bảy, ngày
18/4/2009, hiệu trưởng Trường Đại học kinh tế - ĐHQG đã triệu tập được một cuộc
họp chưa từng có trong lịch sử nhà trường : Hội thảo mang tên ‘’Đào tạo
theo nhu cầu xã hội’’, với sự góp mặt của đông đảo các hiệp hội doanh nghiệp,
các lãnh đạo doanh nghiệp lớn trên toàn quốc, kể cả khối tư nhân lẫn khối nhà
nước và nước ngoài, hai bên – bên đào tạo và bên sử dụng kết quả đào tạo – đã
thẳng thắn đối thoại. Phía nhà trường đã kêu gọi phía doanh nghiệp « đặt
hàng » nhằm thể hiện mong muốn đào tạo ra đúng sản phẩm cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, trường Đại học kinh tế, ĐHQG đã tiến hành được ba cuộc điều tra
sinh viên sau khi ra trường để nắm bắt được hiệu quả đào tạo của nhà trường.
Hướng đào tạo theo nhu cầu cụ thể của doanh nghiệp dường như đang khẳng định
con đường phát triển của đào tạo Việt
Nam hiện nay.
4. Yếu tố đánh giá hệ
thống đào tạo và định hướng cơ sở đào tạo : Quá trình gia nhập thị trường
lao động
Đào tạo có chất lượng và hiệu quả, đó là cái đích phải
đạt được cho dù ta có lựa chọn hay kiến thiết bất kì loại mô hình nào. Tuy nhiên,
để đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động hay của « xã hội » thì
điều quan trọng nhất là phải thống kê được các nghề nghiệp hiện tại cũng như xu
hướng phát triển các nghề nghiệp tương lai. Đây là công việc thống kê liên quan
đến toàn xã hội. Dứt khoát xã hội không chỉ là tổng hợp các doanh nghiệp, mà
doanh nghiệp chỉ là một bộ phận của xã hội. Trong xã hội còn nhiều tổ chức khác
liên quan đến nghệ thuật, nhân đạo, sinh thái, môi trường... Để đảm bảo sự phát
triển lành mạnh của xã hội, cơ sở đào tạo cần chú trọng tổng thể các ngành nghề
trong xã hội, hiện tại cũng như tương lai.
Để đánh giá chất lượng của hệ thống đào tạo, có rất nhiều
chỉ tiêu. Ở Việt Nam, đào tạo chủ
yếu vấn được thực hiện trên cơ sở sàng lọc khắt khe và thực hiện trên cơ sở
ngân sách và phân bổ của nhà nước, do đó các chỉ tiêu về chi phí đào tạo (như
chi phí bình quân cho một sinh viên, chi phí bình quân cho đào tạo tính theo
đầu người) và kết quả đào tạo (trình độ đạt được của học viên, tỉ lệ đạt bằng
cấp ba/bằng đại học của một thế hệ…) dường như chưa được các cơ sở đào tạo quan
tâm cho lắm. Chỉ tiêu việc làm đối với sinh viên đã được các cơ sở đào tạo đầu
tư nghiên cứu thông qua điều tra và coi đây là yếu tố đánh giá cơ sở đào tạo.
Một số trường đại học tiên phong đã đi đầu trong hoạt động điều tra này, như trường
Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rằng, kết quả điều
tra chỉ giống như một bức ảnh chụp tình hình người lao động và việc làm vào một
thời điểm nhất định. Trong khi đó, gia nhập thị trường lao động của học viên
lại không phải là một thời điểm nhất định, mà đó là cả một quá trình. Quá trình
gia nhập thị trường lao động là một quá trình xã hội do bởi hai yếu tố chi
phối : 1. tính kiện toàn và hiệu năng của hệ thống đào tạo và 2.
mối quan hệ tương thích giữa nghề nghiệp của người được đào tạo với bằng cấp đã
nhận được. Quá trình gia nhập này kết thúc khi chủ thể của nó, tức là
cá nhân người ra trường và tìm việc đó, không còn ở địa vị người đi tìm việc
nữa. Quá trình này có thể ví như một cuộc phiêu lưu đan xen giữa việc làm - thị
trường lao động và rút cục thì dừng lại ở một công việc ổn định.
Tóm lại, cơ sở đào tạo cần phải nghiên cứu cả quá trình gia nhập thị trường lao động của
sản phẩm đào tạo của mình, kể từ khi người này ra trường đến khi ổn định tại
một công việc nhất định với thời hạn vĩnh viễn. Nếu chỉ dừng lại điều tra ở chỗ
người lao động đang có việc làm, kể như mới nhìn được có một phần của hiện
thực. Do đó, kết quả đó không thể là định hướng cho đào tạo được. Quá trình gia
nhập thị trường lao động là yếu tố đánh giá cơ sở đào tạo đồng thời cũng chính
nó mới là yếu tố để có thể xác định được chính xác tỉ lệ có việc, tỉ lệ thất
nghiệp, tính chất việc làm của người trẻ mới ra trường, và xu hướng diễn biến
trên thị trường lao động để có thể dựa vào đó làm cơ sở định hướng đạo tạo cho
cơ sở đào tạo.
DU HỌC BB - VÌ SINH VIÊN VIỆT NAM DU HỌC VÀ LẬP NGHIỆP
Địa chỉ: 13B, QUỐC TỬ GIÁM
Tel.: 04 3 7325 896.
Mobile: 098 40 23247
Email.: study@bridgeblue.edu.vn.
Facebook: www.facebook.com/duhocBB
YouTube: ttp://www.youtube.com/user/econsultantful/videos